Dịch vụ khác tại Hậu Giang

Chuyển đến nội dung chínhChuyển đếnChuyển đến nội dung chínhChuyển đến thanh công cụThủ tục bán nhà và đất khi địa phương không có phòng công chứngChọn nệm cho mùa hèPhân chia tài sản thừa kế như thế nào cho đúng? thanh công cụ 428 lượt xem

Tháng 4-2006 tôi có mua của người hàng xóm lô đất, lô đất này trước khi bán đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu và chỉ đứng tên người chồng (giấy cấp năm 2004, họ kết hôn trước năm 2004). Tháng 5-2006 tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
 
 
Chồng tôi chết
Năm 2007 tôi triển khai xây dựng nhà nhưng do không đủ tiền nên tôi vay vốn ngân hàng với hạn trả nợ là 3 năm. Tôi đã trả hết nợ và triển khai lấy giấy ghi nhận quyền sử dụng đất.
 

Nay tôi muốn làm giấy hoàn công thì kiến trúc sư bảo rằng lúc này không cần hoàn công nữa mà làm luôn giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà. Tôi được biết thêm hồ sơ cần nộp có biên lai thuế xây dựng nhưng lúc nhà xây bên đội thuế phường có nhu cầu tôi nộp biên lai thuế xây dựng cho họ, tôi nộp luôn bản gốc. trong thời điểm này, tôi rơi vào tình trạng thuế bên thầu đã nộp nhưng tôi không có biên lai.

Tôi hoàn toàn có thể nhu cầu bên đội thuế phường hay Chi cục Thuế thành phố sao cho tôi biên lai khác được không hay là tôi phải nộp lại thuế khác? giấy tờ thủ tục ra sao? Chân thành cảm ơn! (aadzon@yahoo.com.vn)

Trả lời

Để xin chứng thực công trình hoàn công xây dựng. Bạn cần chuẩn bị một bộ thủ tục gồm có:

- Giấy báo kiểm tra công trình hoàn thành theo mẫu (1 bản chính).

- Giấy phép xây dựng nhà ở (1 bản sao y có xác nhận sao y), kèm theo bản vẽ thiết kế xây dựng nhà (1 bản sao không cần xác nhận sao y).

- Bản vẽ thực trạng hoàn công (2 bản chính).

- Bản hợp đồng thi công với đơn vị có giấy phép hành nghề (1 bản sao) kèm 1 bản sao giấy phép hành nghề của đơn vị thi công (có thị thực sao y). Hoặc biên lai thu thuế xây dựng.

Theo đó, khi bạn làm thất lạc biên lai thuế, bạn cần tiến hành giấy tờ thủ tục xin trích lục/sao lục tại đơn vị ban hành, hoặc đơn vị đang lưu giữ biên lai này.

Căn cứ Điều 4 Nghị định 79/2007/NĐ-CP quy định về thẩm quyền & trách nhiệm cấp bản sao từ sổ gốc thì “Cơ quan, tổ chức đang quản lý sổ gốc có thẩm quyền & trách nhiệm cấp bản sao từ sổ gốc”.

Theo chúng tôi bạn có thể liên lạc với Tổ thuế Phường - Chi cục Thuế tại địa phương để xin cấp lại bản sao.

doanh nghiệp Luật Thiên Bình


Nguồn: Cafeland.vn

Vợ chồng tôi đang muốn nhượng lại nhà và đất cho người khác. Tôi phải làm hợp đồng tại cơ quan công chứng hay tại UBND vì nơi tôi sinh sống và có đất định bán không có phòng công chứng?
 

Vợ chồng tôi đang muốn nhượng lại nhà và đất cho người khác. Tôi phải làm hợp đồng tại cơ quan công chứng hay tại UBND vì nơi tôi sinh sống và có đất định bán không còn phòng công chứng? Để bảo đảm an toàn việc mua bán là hợp pháp xin hướng dẫn tôi làm hồ sơ như nào cho đúng?
Trung Hiếu - Tuyên Quang

Trả lời



Thông tư 03/2008/TT-BTP của Bộ Tư pháp quy định: Để tạo điều kiện kèm theo cho Phòng Tư pháp cấp huyện, ủy ban nhân dân cấp xã tập trung tiến hành tốt công tác xác thực bản sao, chữ ký theo quy chế của Nghị định số 79, đồng thời từng bước chuyển giao các HĐ, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công xác thực hiện theo đúng tinh thần của Luật Công chứng, đóng góp đảm bảo pháp luật cho các HĐ, thanh toán giao dịch của cá nhân, tổ chức, ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần tiến hành các biện pháp phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương; căn cứ vào tình hình phát triển của tổ chức hành nghề công chứng để ra quyết định giao các HĐ, giao dịch thanh toán cho các tổ chức hành nghề công xác thực hiện; trong tình huống trên địa bàn huyện chưa có tổ chức hành nghề công chứng thì người tham gia hợp đồng, giao dịch được lựa chọn công chứng của tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn khác hoặc xác thực của ủy ban nhân dân cấp xã theo quy chế của pháp luật.

Theo đó, nếu trên địa bàn huyện nơi bạn sinh sống chưa có phòng công chứng thì bạn có quyền lựa chọn phòng công chứng ở địa bàn khác công chứng cho hợp đồng chuyển nhượng nhà đất của mình, hoặc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng nhà đất tại UBND cấp xã nơi có đất chuyển nhượng.
LS. Bạch Tuyết Hoa

VPLS Phúc Thọ - 23 Hồ Đắc Di, Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội

Nguồn: Cafeland.vn

Mùa hè nằm nệm? nguyên nhân không. Tuy nhiên cái nóng của mùa hè buộc ta phải biết chọn lựa những sản phẩm thích hợp với thời tiết.
 

Trên thị trường hiện có rất nhiều sản phẩm để người chi tiêu và sử dụng rất có thể chọn lựa cho mính sản phẩm thích hợp.


 


Nệm bông ép

Loại này thích phù hợp với những người cao tuổi hay bị đau khớp, nhức mỏi vì có độ cứng, không lún, xẹp. Ngoài ra, loại nệm này có thể gập lại làm 2 - 3 nên tiết kiệm diện tích cho những không gian nhỏ. Các nhãn hiệu nệm bông ép được người tiêu dùng quan tâm nhiều là Everon, Vivabon, Vạn Thành... với mức giá từ 1 - 5 sung sướng/chiếc (dày từ 3 – 15cm). Loại nệm bông ép của Hàn Quốc hiện nay đang được ưa chuộng vì hoa văn trang nhã, công nghệ mới, giá thành cũng nằm ở tầm trung.

Nệm lò xo

Nhiều người hay nhầm lẫn nệm lò xo với nệm mousse vì ngoại hình có nét tương đồng. Tuy nhiên nệm lò xo được dùng nhiều hơn ở trong mùa hè vì khá thoáng mát.

Nói nệm lò xo rẻ hơn nệm cao su cũng chưa chính xác. Biên độ dao động giá thành của loại nệm này khiến nhiều bạn không khỏi thắc mắc, từ tầm 2 đến 40 triệu đồng, thậm chí một vài chiếc riêng lẻ đến trên 50 triệu đ có mặt tại các trung tâm mua sắm sang trọng như Diamond, Parkson...

Các loại nệm lò xo nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam như Ưu Việt, Vĩnh Thái, Thịnh Thái, Liên Á, Vạn Thành, có giá từ 1.800.000 – 3.000.000đồng, phục vụ cho khách tầm trung ở trong khi các thương hiệu Anh – Mỹ như Beautycomfort, Englander, Crystal Bedding, Dunlopillo có giá cao hơn 2-5 triệu đ, kèm nhiều tính năng mới như kháng khuẩn, thông hơi tốt, chống côn trùng, vỏ bọc gấm cao cấp nhập từ châu Âu...

Nệm cao su thiên nhiên

Nệm cao su thiên nhiên có ưu thế tuyệt đối giữ cho xương sống ở trong tư thế thẳng khi đang nằm. kề bên kiểu cổ điển 1 mặt lỗ thông hơi và màu da truyền thống, các hãng nệm đã tung ra nhiều dòng không giống nhau tăng cường độ thoáng khí (2 mặt lỗ thông hơi), mềm mại, có mát-xa, chống cháy, vẻ bên ngoài chăm chút hơn với màu trắng sạch đẹp. Tuy nhiên, có một số nệm cao su dùng hóa chất tẩy mùi, hoàn toàn có thể gây mẩn đỏ trên da trong thời giờ đầu sử dụng.

Thị trường nệm cao su thiên nhiên của nước ta hoàn toàn chiếm ưu thế so với các mẫu sản phẩm ngoại nhập với các tên thương hiệu Kymdan, Liên Á, Vạn Thành... Giá dao động từ 2.200.000 – 25 triệu đ/sản phẩm (loại thường cao 5cm đến loại cao cấp 20cm bảo hành 10 năm).

Nệm nước

Thị trường hiện còn có loại nệm nước chuyên phục vụ cho mùa nóng, giá dao động từ 100.000 – 450.000 đồng. mặt phẳng của nệm nước được chia thành nhiều rãnh, phía bên trong là các ngăn cách biệt chứa nước, có tác dụng làm mát và massage lưng nhờ dao động của nước trong các ngăn.

Điều phiền phức của đệm nước là chúng thường có kích thước nhỏ nên thường dùng cho trẻ em hoặc chỉ sử dụng được phần lưng. Loại nhỏ rộng 0,75 m, dài 0,9 m, giá 220.000 đồng/tấm, hầu hết dành cho trẻ nhỏ hoặc người già. Loại lớn có kích thước 0,75 m x 1,8 m hoặc 0,75 m x 1,9 m, giá 420.000 đồng/tấm. Để dùng cho giường đôi , phải dùng hai tấm ghép lại. Trọng lượng khá lớn (5 – 30kg), chúng rất trở ngại khi di chuyển.

 

 

 

 

Cafeland.vn - Theo PNO

 

 


 

 


Nguồn: Cafeland.vn

có để lại cho tôi một căn nhà. Tôi có làm thủ tục di sản thừa kế để làm chủ quyền bao gồm tên tôi và ba đứa con. Sau khi có sổ hồng tôi dự định bán nhà để chia cho ba đứa con, nhưng chưa biết phải chia như thế nào?
 

Trả lời:

- Theo qui định của pháp luật thừa kế, việc phân chia di sản để lại của người chết sẽ được tiến hành theo di chúc hợp pháp.

ở trong trường hợp người chết không để lại di chúc hợp pháp thì di sản để lại của người chết sẽ được phân chia thừa kế theo qui định của pháp lý về hàng thừa kế, điều kiện kèm theo & trình tự thừa kế. Do ở trong thư của bà không nói rõ căn nhà đó thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay thuộc sở hữu riêng của chồng bà, được tạo lập vào trước hay trong thời kỳ hôn nhân nên không thể trả lời cụ thể chính xác được.

Theo qui định tại khoản 2 điều 767 Bộ luật dân sự, di sản để lại của người chết sẽ được chia đều cho những người thừa kế cùng hàng (hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết). trong trường hợp căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng thì một nửa căn nhà thuộc quyền nắm giữ của bà, 50% căn nhà còn sót lại thuộc quyền nắm giữ của chồng bà sẽ được phân chia thừa kế theo pháp luật như trên.
Theo qui định tại điều 223 Bộ luật dân sự, mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thỏa thuận hoặc theo qui định của pháp luật. ở trong trường hợp một chủ nắm giữ chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. ở trong thời hạn ba tháng (đối với bds nhà đất) kể từ ngày các chủ nắm giữ chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không còn chủ sở hữu chung nào mua, thì chủ nắm giữ đó được quyền bán cho người khác. Cafeland.vn - theo Luatcongminh.com

Nguồn: Cafeland.vn

Thứ tư, 21/04/2010


Tháng 4-2006 tôi có mua của người hàng xóm lô đất, lô đất này trước khi bán đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu và chỉ đứng tên người chồng (giấy cấp năm 2004, họ kết hôn trước năm 2004). Tháng 5-2006 tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi - người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì ở trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ.

Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào?

Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp.

Xin chân thành cảm ơn!
 

yenvi3@...
 

Trả lời:

Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy chứng nhận không tác động tới sự việc nắm giữ chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.

Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì HĐ chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP).

Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu nhu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch thanh toán dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch thanh toán được xác lập. Do vậy, thời hiệu nhu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình thức trong trường hợp này đã hết.

Do vậy, ở trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó hoàn toàn có thể gồm các hồ sơ nhiều sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác thực của cán bộ phường đã triển khai việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, hồ sơ nhiều về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất...

Ngoài ra, tại thời điểm bà làm hồ sơ xin cấp giấy ghi nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một chứng cứ có lợi cho bà.

Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG

www.shlaw.vn




Thứ tư, 21/04/2010


Tháng 4-2006 tôi có mua của người hàng xóm lô đất, lô đất này trước khi bán đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu và chỉ đứng tên người chồng (giấy cấp năm 2004, họ kết hôn trước năm 2004). Tháng 5-2006 tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi - người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ.

Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện ở trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào?

Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư support giúp.

Xin chân thành cảm ơn!
 

yenvi3@...
 

Trả lời:

Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân & gia đình & khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả 2 trên giấy ghi nhận không ảnh hưởng tác động đến sự việc nắm giữ chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.

Do vậy, tình huống quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì HĐ chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP).

Theo điều 134 & khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch thanh toán dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu nhu cầu Tòa án tuyên thanh toán giao dịch vô hiệu về hình thức trong tình huống này đã hết.

Do vậy, trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến & đồng ý. Các chứng cứ đó hoàn toàn có thể gồm các hồ sơ nhiều sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, chứng thực của cán bộ phường đã thực hiện việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, hồ sơ nhiều về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất...

Ngoài ra, tại thời khắc bà làm giấy tờ thủ tục xin cấp giấy ghi nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một chứng cứ có lợi cho bà.

Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG

www.shlaw.vn




Thứ tư, 21/04/2010


Tháng 4-2006 tôi có mua của người hàng xóm lô đất, lô đất này trước khi bán đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu và chỉ đứng tên người chồng (giấy cấp năm 2004, họ kết hôn trước năm 2004). Tháng 5-2006 tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi - người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì ở trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ.

Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào?

Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư hỗ trợ tư vấn giúp.

Xin chân thành cảm ơn!
 

yenvi3@...
 

Trả lời:

Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình & khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy ghi nhận không tác động tới việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có đàm phán.

Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì HĐ chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP).

Theo điều 134 & khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu nhu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy chế về hình thức là 2 năm kể từ ngày thanh toán giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên thanh toán giao dịch vô hiệu về hình thức trong trường hợp này đã hết.

Do vậy, ở trong tình huống người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến & đồng ý. Các chứng cứ đó hoàn toàn có thể gồm các hồ sơ nhiều sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác thực của cán bộ phường đã tiến hành việc xác nhận HĐ chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất...

Ngoài ra, tại thời khắc bà làm hồ sơ xin cấp giấy ghi nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là 1 trong những chứng cứ có lợi cho bà.

Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG

www.shlaw.vn




Thứ tư, 21/04/2010


Tháng 4-2006 tôi có mua của người hàng xóm lô đất, lô đất này trước khi bán đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu và chỉ đứng tên người chồng (giấy cấp năm 2004, họ kết hôn trước năm 2004). Tháng 5-2006 tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi - người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì ở trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ.

Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào?

Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư hỗ trợ tư vấn giúp.

Xin chân thành cảm ơn!
 

yenvi3@...
 

Trả lời:

Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân & gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy chứng nhận không ảnh hưởng tác động tới sự việc nắm giữ chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.

Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì hợp đồng chuyển nhượng không có chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP).

Theo điều 134 & khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu nhu cầu Tòa án tuyên bố thanh toán giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch thanh toán được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch thanh toán vô hiệu về hình thức ở trong tình huống này đã hết.

Do vậy, ở trong tình huống người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó rất có thể gồm các hồ sơ nhiều sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã triển khai việc xác nhận hợp đồng chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất...

Ngoài ra, tại thời khắc bà làm thủ tục xin cấp giấy ghi nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là 1 trong những chứng cứ có lợi cho bà.

Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG

www.shlaw.vn




Thứ tư, 21/04/2010


Tháng 4-2006 tôi có mua của người hàng xóm lô đất, lô đất này trước khi bán đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu và chỉ đứng tên người chồng (giấy cấp năm 2004, họ kết hôn trước năm 2004). Tháng 5-2006 tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi - người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì ở trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ.

Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào?

Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư support giúp.

Xin chân thành cảm ơn!
 

yenvi3@...
 

Trả lời:

Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân & GĐ và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả 2 trên giấy ghi nhận không tác động đến việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có đàm phán.

Do vậy, trường hợp quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì hợp đồng chuyển nhượng không còn chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP).

Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố thanh toán giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch thanh toán được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch thanh toán vô hiệu về hình thức ở trong trường hợp này đã hết.

Do vậy, ở trong tình huống người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến & đồng ý. Các chứng cứ đó có thể gồm các giấy tờ sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã tiến hành việc xác thực hợp đồng chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất...

Ngoài ra, tại thời khắc bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là 1 trong chứng cứ có lợi cho bà.

Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG

www.shlaw.vn




Thứ tư, 21/04/2010


Tháng 4-2006 tôi có mua của người hàng xóm lô đất, lô đất này trước khi bán đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu và chỉ đứng tên người chồng (giấy cấp năm 2004, họ kết hôn trước năm 2004). Tháng 5-2006 tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi - người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì ở trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ.

Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện ở trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào?

Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp.

Xin chân thành cảm ơn!
 

yenvi3@...
 

Trả lời:

Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả hai trên giấy ghi nhận không ảnh hưởng tác động đến sự việc nắm giữ chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.

Do vậy, tình huống quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì HĐ chuyển nhượng không còn chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP).

Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch thanh toán dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch thanh toán được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình thức trong tình huống này đã hết.

Do vậy, trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến & đồng ý. Các chứng cứ đó hoàn toàn có thể gồm các hồ sơ nhiều sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã tiến hành việc xác thực HĐ chuyển nhượng, hồ sơ nhiều về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất...

Ngoài ra, tại thời điểm bà làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một trong những chứng cứ có lợi cho bà.

Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG

www.shlaw.vn




Thứ tư, 21/04/2010


Tháng 4-2006 tôi có mua của người hàng xóm lô đất, lô đất này trước khi bán đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu và chỉ đứng tên người chồng (giấy cấp năm 2004, họ kết hôn trước năm 2004). Tháng 5-2006 tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi - người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ.

Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện ở trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào?

Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp.

Xin chân thành cảm ơn!
 

yenvi3@...
 

Trả lời:

Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân & GĐ & khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả 2 trên giấy chứng nhận không tác động tới sự việc nắm giữ chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.

Do vậy, tình huống quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì HĐ chuyển nhượng không còn chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP).

Theo điều 134 & khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố thanh toán giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch thanh toán được xác lập. Do vậy, thời hiệu nhu cầu Tòa án tuyên thanh toán giao dịch vô hiệu về hình thức trong tình huống này đã hết.

Do vậy, ở trong tình huống người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó rất có thể gồm các giấy tờ sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã triển khai việc chứng thực HĐ chuyển nhượng, hồ sơ nhiều về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất...

Ngoài ra, tại thời điểm bà làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là 1 trong chứng cứ có lợi cho bà.

Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG

www.shlaw.vn




Thứ tư, 21/04/2010


Tháng 4-2006 tôi có mua của người hàng xóm lô đất, lô đất này trước khi bán đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu và chỉ đứng tên người chồng (giấy cấp năm 2004, họ kết hôn trước năm 2004). Tháng 5-2006 tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi - người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ.

Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện ở trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào?

Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư support giúp.

Xin chân thành cảm ơn!
 

yenvi3@...
 

Trả lời:

Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và GĐ và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả 2 trên giấy chứng nhận không tác động tới việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có đàm phán.

Do vậy, tình huống quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì hợp đồng chuyển nhượng không còn chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP).

Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về hình thức trong tình huống này đã hết.

Do vậy, ở trong trường hợp người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến & đồng ý. Các chứng cứ đó rất có thể gồm các hồ sơ nhiều sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác nhận của cán bộ phường đã tiến hành việc xác thực HĐ chuyển nhượng, hồ sơ nhiều về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất...

Ngoài ra, tại thời khắc bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là một trong chứng cứ có lợi cho bà.

Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG

www.shlaw.vn




Thứ tư, 21/04/2010


Tháng 4-2006 tôi có mua của người hàng xóm lô đất, lô đất này trước khi bán đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu và chỉ đứng tên người chồng (giấy cấp năm 2004, họ kết hôn trước năm 2004). Tháng 5-2006 tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi - người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ.

Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất của người hàng xóm có còn không? Giấy biên nhận thanh toán tiền sang nhượng đất nói trên có đảm bảo tính pháp lý chứng minh vợ người hàng xóm đã đồng thuận cùng chồng bán đất cho tôi? Thời điểm bắt đầu để tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của tôi được tính từ khi nào?

Xin nói thêm, sau khi mua lô đất trên (lô đất đã có nhà ở), do chưa có nhu cầu sử dụng ngay tôi đã cho vợ chồng người bán thuê lại (hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả 2 vợ chồng, được UBND phường xác nhận) và từ tháng 5-2006 đến nay họ vẫn sống tại ngôi nhà trên. Mong luật sư tư vấn giúp.

Xin chân thành cảm ơn!
 

yenvi3@...
 

Trả lời:

Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân & gia đình và khoản 3 điều 5 Nghị định 70/2000/NĐ-CP, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc ghi tên một người hay cả 2 trên giấy ghi nhận không tác động đến sự việc sở hữu chung của vợ chồng. Còn quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có đàm phán.

Do vậy, tình huống quyền sử dụng đất mà bà đã nhận chuyển nhượng là tài sản chung vợ chồng của phía bên bán như nói trên, thì HĐ chuyển nhượng không còn chữ ký của người vợ là vi phạm về hình thức (khoản 1 Điều 4 của Nghị định 70/2000/NĐ-CP).

Theo điều 134 và khoản 1 điều 136 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố thanh toán giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Do vậy, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên thanh toán giao dịch vô hiệu về hình thức trong tình huống này đã hết.

Do vậy, ở trong tình huống người vợ khởi kiện, bà cần cung cấp cho Tòa án những chứng cứ cho thấy việc bán đất trước kia thực sự đã được người vợ chứng kiến và đồng ý. Các chứng cứ đó có thể gồm các giấy tờ sau: giấy nhận tiền có chữ ký của người vợ, xác thực của cán bộ phường đã tiến hành việc chứng thực HĐ chuyển nhượng, giấy tờ về việc bà cho hai vợ chồng bên bán thuê đất...

Ngoài ra, tại thời điểm bà làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận, nếu cơ quan cấp giấy có thông báo cho hai vợ chồng bên bán về việc cấp giấy cho bà thì đó cũng là 1 trong chứng cứ có lợi cho bà.

Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG

www.shlaw.vn




Thứ tư, 21/04/2010


Tháng 4-2006 tôi có mua của người hàng xóm lô đất, lô đất này trước khi bán đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu và chỉ đứng tên người chồng (giấy cấp năm 2004, họ kết hôn trước năm 2004). Tháng 5-2006 tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngay sau khi UBND phường công chứng hợp đồng sang nhượng đất, tôi đã thanh toán tiền sang nhượng đất cho cả hai vợ chồng (biên nhận viết tay có chữ ký của cả hai vợ chồng, bên nhận tiền và chữ ký của tôi - người giao tiền). Nay vợ người hàng xóm làm đơn khởi kiện đòi hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất vì ở trong hợp đồng sang nhượng không có chữ ký của người vợ.

Xin hỏi, thời hiệu khởi kiện đò




Nguồn: Cafeland.vn
Xem thêm:Làm thế nào để vay vốn mua đất tại tỉnh Bình Dương dễ nhất?
tham khảo:Bí quyết để vay mượn mua đất tại Bình Định dễ dàng nhất?
tham khảo:Phương pháp để vay mượn mua đất tại tỉnh Bình Phước nhanh nhất?
tìm hiểu thêm:Khám phá bí mật khi vay vốn mua đất tại Bình Thuận dễ dàng nhất?
Xem thêm:Bạn sẽ vay vốn mua đất tại Cà Mau đơn giản nhất?

 

 

Tags:
Đăng bởi: Nguyễn Văn Thắng

Giới thiệu Miền Tây Net | Liên hệ góp ý | Quy định sử dụng | Bảng giá quảng cáo | Thông tin thanh toán
©2012 Miền Tây Net - Trang thông tin tổng hợp chia sẽ từ các nguồn sao chép.
Vui lòng fax công văn cảnh báo vi phạm nếu vô tình chúng tôi sao chép thông tin độc quyền từ các quý báo điện tử, trang thông tin.